Tin hot

 Giàu để làm gì? Suy ngẫm

Nêu câu hỏi đó, giữa mùa xuân bộn bề công việc, nghe thật ngớ ngẩn phải không? Sao lại đặt câu hỏi về một điều quá hiển nhiên như thế? Đã sinh ra và lớn lên ở một đất nước không có truyền thống sung túc, dư giả như Việt Nam, có ai mà không biết giá trị và lợi ích của cái sự giàu. Trong thành ngữ Việt Nam, đồng tiền – biểu tượng của giàu có, nhiều lần được nhắc đến như một thế lực vạn năng. Vì “đồng tiền là chúa muôn loài”, cho nên, “có tiền chán vạn người hầu - có bấc có dầu chán vạn kẻ khêu”, “có của thì có mẹ nàng - có bạc có vàng thì có kẻ ưa”. Từ thực tế hàng ngày, người Việt đã tổng kết: “chẳng gì tươi tốt bằng vàng - chẳng gì lịch sự vẻ vang bằng tiền” hay “có tiền mua tiên cũng được - không tiền mua lược không xong”. Tuy nhiên, đó chỉ là cách nhìn phổ biến của người Việt. Trong bài viết này, tôi muốn giới thiệu một cách nhìn được chia sẻ rộng rãi trong xã hội Mỹ mà việc tham khảo nó có thể mang đến những thay đổi nào đó trong nhận thức và lối sống của người Việt chúng ta.

Trong một cuốn sách nhỏ được xuất bản gần đây - Thư gửi quý nhà giàu Việt Nam[2], TS. Nguyễn Xuân Xanh đã cung cấp nhiều thông tin thú vị phản ánh quan niệm và cách sử dụng tiền bạc của người Mỹ. Về cơ bản, người Mỹ cho rằng, khi bạn có của cải, cách tốt nhất là ... đem cho người khác. Quả thực, hiến tặng (endowment) đã trở thành một truyền thống lâu đời của nước Mỹ. Đến thăm Hoa Kỳ vào đầu thế kỷ 19, học giả trứ danh người Pháp Alexis de Tocqueville nhận thấy người Mỹ có thói quen “không ngừng giúp đỡ người khác và sẵn sàng dành thì giờ và tài sản của mình để đóng góp cho nhà nước” (tr. 23). Cuối thế kỉ 19 - đầu thế kỉ 20, song song với quá trình tăng trưởng kinh tế thần kỳ - đưa nước Mỹ vươn lên trở thành cường quốc số 1 thế giới, các hoạt động nhân ái ở Mỹ cũng bùng lên mãnh liệt. Giới nhà giàu mỹ đã bỏ tiền túi ra để xây dựng các trường đại học khồng lồ: Johns Hopkins ở Baltimore, Ezra Cornell ở Itthaca, Leland Standford ở Palo Alto và John D. Rockefeller ở Chicago. Cũng trong thời kì này, tỷ phú Andrew Carnegie đã hiến tặng 90% gia sản của ông cho xã hội – trị giá 350 triệu đô la (tương đương 4,76 tỷ đô la theo thời giá 2014) để xây dựng thư viện, trường học, đại học, cấp học bổng và nhiều tài trợ khác ở nhiều quốc gia trên thế giới. Phong trào nhân ái tiếp tục dâng cao trong các thập niên đầu sau thế chiến 2 và trở nên thăng hoa từ cuối thập niên 1980 trở lại nay - giai đoạn chứng kiến sự ra đời của một thế hệ tỷ phú mới - những người mà sự thành công của họ gắn với cuộc cách mạng công nghệ thông tin. Thời kì này, rất nhiều người khổng lồ trong lĩnh vực tài chính đã tự nguyện bước vào lĩnh vực thiện nguyện. George P.Mitchell, được xem như cha đẻ của kỹ nghệ khoan dầu khí theo phương pháp fracking, đã tặng 360 triệu đô la cho một số lĩnh vực khoa học như vật lý hạt, phát triển bền vững và thiên văn (tr. 35). Gordon Moore, người đồng sáng lập Intel hiến tặng 200 triệu đô la để xây dựng kính viễn vọng trên một đỉnh núi Hawai. Ông còn tài trợ cho các lĩnh vực vật lý, sinh học, thực vật học, khoa học biển, môi trường, rừng và bảo toàn sự sống trên hành tinh. James Simons - thuộc quỹ đầu tư Hedge funds tặng 1,1 tỉ đô la cho các dự án nghiên cứu trong toán học và các ngành khoa học khác. Năm 2006, một thế kỷ sau khi các nhà công nghiệp Andrew Carnegie và John D. Rockefeller thiết lập các quỹ và định chế nhân ái mang tên họ, tỷ phú Warren Buffet gây xôn xao dư luận thế giới khi cam kết tặng 31 tỉ đô la cho Quỹ Bill và Melinda Gates vì mục đích nhân ái (tr. 57). Đặc biệt, vào mùa hè 2010, hai đại tỷ phú Bill Gates và Warren Buffet đưa ra một sáng kiến lịch sử có tên “Cam Kết Hiến Tặng” (The Giving Pledge) nhằm kêu gọi các cá nhân và gia đình giàu nhất hành tinh hiến tặng ít nhất phân nửa tài sản của họ cho những mục tiêu nhân ái hoặc từ thiện. Sau khi ra đời, Cam Kết Hiến Tặng đã thu hút sự tham gia của 40 tỷ phú Mỹ (tr 53).

Không chịu lép vế các đấng mày râu, phụ nữ Mỹ cũng tích cực làm từ thiện. Năm 1995, nước Mỹ chấn động khi biết tin bà Oseola McCarty - một người phụ nữ nghèo, thất học, đơn thân, sống bằng nghề giặt đồ tại thành phố Hattiesburg (bang Mississippi), ở tuổi 87 tuyên bố hiến tặng toàn bộ số tiền dành dụm được trong cả cuộc đời trị giá 150.000 đô la cho Đại học Nam Mississippi để làm quỹ học bổng cho sinh viên da đen nghèo học giỏi. Khi câu chuyện của bà được đưa lên trang đầu của báo New York Times, đã có nhiều người nổi tiếng đến quỳ trước bà, hát cho bà nghe và ca ngợi bà như một vị thánh (tr. 51). Mười năm sau, năm 2005, Oprah Winfrey - nữ tỉ phú da màu đầu tiên ở Mỹ đã hiến tặng 13% tài sản của bà - trị giá 175 triệu đô la và 10% thu nhập hàng năm của bà vào thời điểm đó, ngoài ra còn tặng 500 ngàn đô la cho trẻ em Chicago (tr.39). Không chỉ giới nhà giàu, số người dân Mỹ hàng năm hiến tặng cho các quỹ nhân ái còn đông hơn lượng cử tri đi bỏ phiếu. Năm 2013, trong tình hình khó khăn chung của kinh tế thế giới, số tiền hiến tặng ở Mỹ vẫn tăng 3,5% so với năm trước với tổng số tiền trên 300 tỉ đô la. Người ta ước tính rằng, trong các thập niên tới, ước tính có từ 41 đến 136 ngàn tỉ đô la từ các quỹ nhân ái của Mỹ sẽ được chuyển giao cho các thế hệ tương lai (trang 99).

Đến đây, hẳn nhiều người sẽ đặt câu hỏi: tại sao người Mỹ lại hiến tặng một cách hào phóng như thế? Người ta cho rằng, văn hóa nhân ái của người Mỹ phát xuất từ các quan điểm đạo đức Tin Lành. Chủ nghĩa Calvin - một nhánh của Tin lành, dạy người Mỹ rằng “người giàu là một người được ủy thác cho sự phồn vinh để anh ta sử dụng nó cho phúc lợi của nhân loại, giống như một người quản gia có trách nhiệm trực tiếp làm theo ý Chúa” (trang 27).  Nghĩa là, người Mỹ không xem giàu có như là thành quả của các năng lực cá nhân xuất chúng - từ đó đi đến bệnh sùng bái bản thân và khinh rẻ đồng loại, mà người giàu đơn giản chỉ là người được Chúa gửi gắm, ủy thác một khối lượng tài sản khổng lồ và trách nhiệm của anh ta là phân chia nó sao cho công bằng nhất. Trong cuốn sách nổi tiếng “Phúc âm của sự thịnh vượng”, tỷ phú kiêm nhà đại bác ái Andrew Carnegie viết: “hãy xem tất cả những lợi tức thặng dư đã đến với anh ta đơn giản chỉ là những quỹ ủy quyền mà anh ta đã được chọn để quản trị, và được thừa nhận một cách nghiêm ngặt như bổn phận quản trị với những phương cách, được tính toán tốt nhất theo sự phán đoán của anh ta, để tạo ra những của cải có lợi nhất cho cộng đồng. Con người của phồn vinh, do đó trở thành một người thuần túy được ủy thác và là tác nhân cho các anh chị em nghèo hơn của anh ta, đem những sự khôn ngoan, kinh nghiệm và năng lực vượt trội của mình để quản trị, làm cho họ tốt hơn họ sẽ là, hay có thể tự làm cho họ được” (trang 122- 123).

Mặt khác, được khai sáng bởi đức tin tôn giáo, người giàu ở Mỹ luôn mang cảm giác biết ơn cuộc đời, do đó, họ tự nhận thấy “có nghĩa vụ đầu tư lại cho xã hội”. Trong Thư Cam Kết Hiến Tặng, Warren Buffet tâm sự: “Nếu sử dụng hơn 1% tài sản cho mục đích riêng, điều đó không làm tăng thêm hạnh phúc hay sức khỏe của chúng tôi. Ngược lại, số tiền 99% có thể có tác dụng to lớn lên sức khỏe và phúc lợi của người khác. Sự thật này đã quyết định con đường của tôi và gia đình tôi. Hãy giữ tất cả những gì chúng tôi nghĩ có thể cần đến, và phân phối phần còn lại cho những nhu cầu của xã hội” (trang 61). Vợ chồng tỷ phú Bill Gates – đồng sáng lập Sáng kiến Hiến tặng với Warren Buffet chia sẻ: “Chúng tôi được ban cho một tài sản lớn vượt khỏi sự mong đợi nhất của chúng tôi, chúng tôi biết ơn sâu sắc. Nhưng với những ban tặng lớn này, chúng tôi cảm nhận một trách nhiệm to lớn để sử dụng chúng cho tốt. Đó là lý do tại sao chúng tôi vô cùng vui mừng khi kết nối để dấn thân thực hiện chương trình cụ thể Cam Kết Hiến Tặng”. George B. Kaiser – chủ tịch BOK Financial Corporation – một trong 100 người giàu nhất Hoa Kỳ cũng viết những lời rung động trái tim người: “Tôi nghĩ, tôi đến với hoạt động nhân ái chủ yếu bằng cảm giác tội lỗi. Tôi đã sớm nhận ra rằng vận may lớn của tôi không phải do tính cách cá nhân hay sáng kiến vượt trội mà do sự may mắn thầm lặng. Tôi có ân huệ được sinh ra trong một xã hội tiến bộ với bố mẹ chu đáo. Cho nên tôi có thuận lợi của cả hai về mặt nuôi dạy và di truyền (“trúng số noãn sào”). Khi nhìn quanh những người không có những thuận lợi này, tôi ý thức ngay rằng tôi có một trách nhiệm đạo lý hướng các nguồn lực của tôi giúp lập lại sự cân bằng” (trang 70).

Khi đọc những dòng tâm sự của các đại tỷ phú Mỹ, tôi có cảm giác như họ cũng là những Phật tử chân chính. Thậm chí, nói theo ngôn ngữ của nhà Phật, họ là những Bồ Tát tự nguyện xuống cõi trần để hóa độ chúng sinh. Hóa ra, có một mối liên hệ rất gần gũi giữa đạo đức Tin Lành và đạo đức Phật giáo trên vấn đề hiến tặng của cải, tài sản. Thông qua các khái niệm “bố thí” hoặc “cúng dường”, các tông phái Phật giáo cũng luôn khuyến khích con người, với tâm từ bi và hoan hỉ, sẵn sàng chia sẻ của cải tư hữu cho người nghèo khổ và người có đức hạnh thanh cao. Trong kinh, Đức Phật từng đưa ra một thí dụ rất hay về giá trị của bố thí: một căn nhà bị cháy, chủ nhân đem ra được khỏi nhà đồ vật nào, đồ vật ấy hữu dụng đối với chủ nhân; những đồ vật còn lại trong nhà bị thiêu hủy, chẳng ích lợi gì cho chủ nhân cả. Cũng như vậy, sắc thân này cũng ví như một căn nhà luôn luôn bị thiêu hủy do bởi 11 thứ lửa (tham, sân, si, sanh, già, chết, sầu não, than khóc, khổ thân, khổ tâm, thống khổ) không ngừng nghỉ. Bậc Thiện trí biết vậy, nên mang của cải đem ra bố thí cho người khác. Thí dụ nổi tiếng này phản ánh một cái nhìn xuyên suốt, tường minh của nhà Phật về của cải, vật chất: tất cả của cải trong thế gian này đều là của chung. Nếu người nào có phước, thì người ấy được thừa hưởng một phần của cải ấy – thực chất là thừa hưởng quả của nhân Thiện mà chính mình đã tạo trong kiếp hiện tại và những kiếp quá khứ, thời gian được thừa hưởng lâu hay mau hoàn toàn tùy thuộc vào nhân Thiện. Bậc Thiện trí thì luôn hiểu rằng, của cải mà mình đang thừa hưởng có tính chất tạm thời, không bền vững, nếu chỉ sử dụng cho mình thì hết, để lâu ngày thì bị hư. Cho nên, họ đem của cải ấy bố thí để tạo nên phước thiện là thứ báu vật của riêng mình, có tính chất bền vững lâu dài, theo mình như bóng theo hình, mọi nơi, mọi kiếp cho quả báu an lạc[3]. Rõ ràng, phía sau vỏ bọc tôn giáo là một cái nhìn mang tính khai sáng về bản chất của của cải và rộng hơn, của vật chất; về giá trị to lớn của hành động hiến tặng, bố thí đối với hạnh phúc của con người mà ở tầm trí tuệ thông thường không thể nào hình dung nổi. Dĩ nhiên, một khi được tiếp nhận, nhận thức này sẽ góp phần tạo nên sự trưởng thành văn hóa cho con người, khiến họ không chỉ thấy rõ sự vô thường, mong manh của kiếp người trước vũ trụ vô thủy vô chung, mà còn nhận ra rằng mọi thứ trên đời, trong đó có tiền bạc, suy cho cùng chỉ là phương tiện để giúp con người sống hạnh phúc hơn, viên mãn hơn.  

Trở lại với văn hóa hiến tặng của người Mỹ, mặc dù rất hào phóng trong việc bố thí, nhưng người Mỹ không làm từ thiện theo lối “phát chẩn” mà có một cái nhìn rất sáng suốt về cách cho. Từ trước đến nay, mọi nguồn của cải hiến tặng đều được dồn cho các lĩnh vực trọng yếu của xã hội - đặc biệt là giáo dục và khoa học công nghệ. Nếu giáo dục cung cấp tri thức mới và xây dựng nền tảng tinh thần cho xã hội thì khoa học công nghệ mở ra các khả năng đột phá cho con người. Quỹ Rockefeller được xem là một điển hình cho cách làm nhân ái của người Mỹ. Nhà kinh tế học Jeffrey Sachs của Đại học Columbia đã miêu tả về quỹ Rockefeller như sau: “Mô hình nên được noi theo là Quỹ Rockefeller, một thể chế phát triển ưu việt của thế kỷ 20, chứng minh rằng các tài trợ nhằm vào tri thức có thể đạt những kết quả tốt. Các món tiền của Rockefeller hỗ trợ diệt trừ giun móc ở Nam Mỹ; phát minh vắc xin bệnh sốt vàng; phát triển penicillin; xây dựng các trường y tế công trên khắp thế giới (ngày nay trở thành những trường hàng đầu không tranh cãi được trong ngành); xây dựng và tài trợ các trung tâm nghiên cứu lớn như Đại học Chicago, Viện Brookings, Đại học Rockefeller, và Văn phòng quốc gia Nghiên cứu Kinh tế; kiểm soát bệnh sốt rét ở Brazil; xây dựng các trung tâm nghiên cứu để thực hiện cuộc cách mạng xanh tại châu Á và nhiều thứ khác nữa” (trang 48). Xin được kể thêm chi tiết này: Đại học Chicago nổi tiếng toàn thế giới do John D.Rockefeller xây dựng năm 1890 - là đại học đầu tiên thoát khỏi cái bóng tôn giáo để phát triển khoa học vì sự phồn vinh của xã hội. Khẩu hiệu của đại học Chicago là “hãy làm cho tri thức tăng trưởng từ nhiều hơn đến nhiều hơn nữa, và qua đó đời sống con người được giàu có lên” (trang 50).  

Việt Nam, cũng như nhiều quốc gia khác ở châu Á, vốn dĩ không có truyền thống hiến tặng. Các dòng của cải ở các quốc gia này thường được luân chuyển trong quỹ đạo gia tộc và đối với người giàu, kẻ thừa hưởng gia sản không phải ai khác ngoài con cháu họ.  Tuy nhiên, gần đây, chịu ảnh hưởng của các hoạt động khai sáng và các phong trào thiện nguyện gắn liền với vai trò của nhà chùa (Phật giáo), nhà thờ (Thiên chúa giáo, Tin lành) và các đoàn thể nhà nước, người giàu nói riêng và người Việt Nam nói chung đang có xu hướng quan tâm và tham gia nhiều hơn vào các hoạt động bác ái, nhân đạo. Dù còn gặp nhiều trở ngại về văn hóa, hành lang pháp lý và trình độ dân trí nhưng xu hướng hiến tặng của người giàu và các tầng lớp trong xã hội đang mở ra triển vọng giải quyết nhiều vấn đề của đất nước và tạo ra các chuẩn mực mới có khả năng định hướng nếp nghĩ, hành vi của người dân theo hướng văn minh. Từ tấm gương của doanh nhân Phạm Văn Bên - người đã bỏ ra hơn 40 tỷ đồng để xây Ký túc xá ở trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh với mong muốn duy nhất là chuẩn bị cho đất nước một thế hệ “vừa có tài mà phải có tâm”, người viết bài này hi vọng rằng, tới đây, giới nhà giàu Việt Nam sẽ tự nguyện đóng góp của cải và cùng suy nghĩ để tạo ra các ngôi trường phi lợi nhuận lành mạnh và chất lượng. Những ngôi trường ấy không cần quy mô hoành tráng nhưng có thể giúp người học phát triển những năng lực tiềm tàng để đạt đến một chuẩn mực trí tuệ và đạo đức mà họ xứng đáng có được. Với niềm mong mỏi ấy, tác giả kết thúc bài viết bằng cách dẫn lại một lập luận rất đáng chú ý của Li Ka-Shing - một trong những đại tỉ phú và một nhà nhân ái lớn của châu Á khi ông kêu gọi giới nhà giàu Á đông thay đổi nhận thức về cách sử dụng tiền bạc: “Ở châu Á, các giá trị truyền thống của chúng ta khuyến khích và đòi hỏi tài sản phải được chuyển tiếp cho dòng họ... Tôi muốn thúc giục và hy vọng thuyết phục được quý vị rằng nếu chúng ta có thể làm thế (nhân ái), chúng ta sẽ vượt qua niềm tin truyền thống ... Ngay cả khi cấu trúc của thể chế chưa chuyển động về hướng hỗ trợ một văn hóa hiến tặng, chúng ta cũng phải từ trái tim xem việc xây dựng xã hội như một nhiệm vụ đồng nghĩa với hỗ trợ con em chúng ta” (trang 94-95).

Đặng Hoàng Giang, Đại học Quốc gia Hà Nội.

[2] Nguyễn Xuân Xanh (2016), Thư gửi quý nhà giàu Việt Nam, Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, TP. HCM. Các trích dẫn được sử dụng trong bài đều nằm trong sách Thư gửi quý nhà giàu Việt Nam.

[3] Tỳ kheo Hộ Pháp (2001), Tìm hiểu phước bố thí,

Tin tức liên quan

Tắm cho con gái, cha vô tình hỏi một câu, bất ngờ biết được bí mật giấu kín bấy lâu
Muốn thành công và giàu có, đừng bỏ qua lời khuyên đắt giá này của Donald Trump 
Đã mơ thì mơ hẳn tới những vì sao, nhưng hãy để đôi chân trụ vững dưới mặt đất
Một phút bạn làm được gì?
Điều gì quan trọng nhất trong cuộc đời
Nghịch lý không thể ngược đời hơn của Người Việt.
Google
Đừng cố tỏ ra hạnh phúc, cứ sống thật với bản thân rồi hạnh phúc sẽ đến
Bao giờ chúng ta ngừng kiếm tiền và biết cách hưởng thụ?
Những tháng ngày tốt đẹp của nhân loại không còn nhiều.
Làm người Việt Nam
Thống kê lực lượng đi làm và ăn bám ở Việt Nam
Phẩm giá con người trong truyền thông đại chúng
Sự nguy hiểm của một trào lưu
Sự khác nhau giữa bức thư gửi mẹ của người... tử tù và của CEO
Hệ lụy từ việc du nhập tùy tiện, thiếu văn hóa các lễ hội nước ngoài
Từ
Im lặng – Sức mạnh của kẻ thông minh hay sự lạnh lùng?
Gà con hỏi: ‘Sao ngày nào mẹ cũng phải đẻ trứng?’, gà mẹ trả lời thật là hay…
Tư duy tích cực - nguồn năng lượng tự nhiên vô giá
Nghiên cứu chứng minh: Càng học cao, lắm tiền thì cuộc sống càng ít hạnh phúc
Thôi kệ
Đừng hờ hững với đời như bọt bể
Đây là lý do tại sao bạn không nên tranh cãi khi đang tức giận
Đẹp và cái đẹp cần vinh danh!
Phạm phải 4 sai lầm này, tiền bạc sẽ mãi mãi rời xa bạn
Bức thư ông bố gửi con gái và bài học cuộc đời
Bố mẹ còn nghiện facebook bảo sao trẻ không sống ảo
Vì sao người Nhật lại thích xin lỗi?
Cái tôi – điều nghiệt ngã nhất của kiếp nhân sinh?
Những suy nghĩ của tôi về tiền và sự giàu có
Chỉ suy nghĩ nhị nguyên sẽ chẳng tiến lên được
Tại sao “giàu thì nó ghét”???
Vì cái Tôi vẫn còn hiện hữu nên không thể sống lặng lẽ
Bạn có dám khóa Facebook 1 năm để đổi lấy 5 điều tuyệt vời này không?
Tấm lòng thoáng đãng thì tiền đồ rộng mở
Năm mới suy nghĩ về hai chữ Phúc và Đức
Năm mới, mong gì? làm gì?
Đầu độc tổ tiên,
Bản chất vi diệu của lời khen: Có thể người ta khen là để dò xét, cảnh cáo bạn đấy nhé!
Đời người ai cũng có 4 giai đoạn khắc nghiệt nhất, nhưng không phải ai cũng toàn vẹn trải qua.
Người tâm lượng hẹp hòi thì cuộc sống khó suôn sẻ
Dừng lại đi những tâm hồn méo mó!
Đừng cảm thấy tồi tệ thay tôi, khi tôi làm gì đó chỉ một mình!
Biết tôn trọng người khác là một loại mỹ đức
Sự thật khắc nghiệt của cuộc sống mà chúng ta đừng cố ... tự lừa mình!
Tri ân thầy tôi đã dạy tôi sống đẹp
3 việc tuyệt đối không nên giúp người khác
Trí tuệ người xưa: Không chần chừ, không nói lời thừa thãi, không ra vẻ
hotline
0917123113
chat Facebook
zalo