Nhận thức Phật giáo về thiên đường và địa ngục - Phần I Tâm và tín
Theo Đức Phật thiên giới (thiên đường) và địa ngục không phải là những nơi chốn mà con người được ký thác sau khi chết, mà là những thái độ của tâm thức điều ta có thể kinh nghiệm ngay bây giờ. Nói một cách đơn giản, nếu có hạnh phúc thì bạn đang ở cõi thiên đường, nhưng nếu đau khổ thì bạn đang ở trong địa ngục. Tất nhiên là nó không chỉ đơn giản như vậy. Vậy chúng ta hãy tự hỏi thiên đường và địa ngục có nghĩa là gì.
Bài viết của Hòa thượng K.Sri Dhammananda.
Đăng Nguyên dịch - Nguồn: audio.buddhistdoor.com
Một trong những vấn đề cổ xưa nhất thách thức nhân loại là câu hỏi về đời sống sau khi chết. Chúng ta đã từ đâu đến và sau khi chết sẽ đi về đâu? Cùng với đó chúng ta tự hỏi mục đích của đời sống tốt là gì. Trước hết, hầu hết mọi người đều đồng ý rằng sống tốt thì khó hơn sống xấu và nếu không có những lý do thật sự tốt chúng ta dĩ nhiên sẽ thích làm điều dễ. Theo suy nghĩ của tôi, đây là lý do tại sao các tôn giáo có mặt và đi cùng với chúng là những khái niệm về thiên đường và địa ngục. Hành xử tốt được hứa hẹn có được phúc lạc vĩnh cữu ở trên thiên đường trong khi hành xử xấu ác bị cảnh báo với một sự trừng phạt vĩnh cữu ở một nơi chốn khác. Với vũ khí song đôi hứa hẹn và đe dọa như vậy, con người buộc phải hành xử theo một cách thức mà nó đem lại lợi ích cho xã hội.
Tuy nhiên, ở một mức độ phát triển tâm thức cao hơn và sự trưởng thành về tinh thần người ta được thôi thúc sống một cuộc đời cao quý vì nó nâng cao phẩm giá của họ và việc hành xử đúng đắn mang lại những phần thưởng của chính nó. Để làm điều này con người được hướng dẫn phát triển một sự hiểu biết đầy đủ về bản chất hiện hữu của họ và nhận thấy rằng khả năng cao nhất của họ không phải vì sợ hãi sự trừng phạt mà bởi hạnh phúc chân thật dài lâu có được từ việc theo đuổi một lối sống cao quý. Mục đích của lời dạy này là khuyến khích người ta sống một đời sống lương thiện cho chính họ và điều này một cách tự nhiên bảo vệ và đảm bảo lợi ích của những người xung quanh.
Phương pháp thứ hai này là điều Đức Phật dạy. Theo Đức Phật, việc chỉ hành xử theo những luật lệ tôn giáo để vào thiên đường là không đủ. Người ta phải tu tập tinh tấn để phát triển tâm thức định tĩnh, bởi vì tất cả hành động có gốc rễ ở nơi tâm. Chính bằng sự kiểm soát tâm mà ta có thể kiểm soát những hành động của mình. Khi tâm và thân được cân bằng hòa hợp, sự hiểu biết chân thật đưa đến hạnh phúc tối thượng có thể đạt được.
Theo Đức Phật thiên giới (thiên đường) và địa ngục không phải là những nơi chốn mà con người được ký thác sau khi chết, mà là những thái độ của tâm thức điều ta có thể kinh nghiệm ngay bây giờ. Nói một cách đơn giản, nếu có hạnh phúc thì bạn đang ở cõi thiên đường, nhưng nếu đau khổ thì bạn đang ở trong địa ngục. Tất nhiên là nó không chỉ đơn giản như vậy. Vậy chúng ta hãy tự hỏi thiên đường và địa ngục có nghĩa là gì.
Chúng ta hãy giải thích bản chất của địa ngục và thiên đường bằng việc sử dụng tri thức thông thường mà không tùy thuộc vào niềm tin, các truyền thống hay kinh sách. Chúng ta không nên tùy thuộc vào các truyền thống, tín ngưỡng hay kinh sách để hiểu chân lý. Tất nhiên, có một số hướng dẫn ở trong các cuốn sách tôn giáo. Nó tùy vào cách chúng ta giải thích khái niệm này. Một vài người tin rằng có những thiên đường và địa ngục vĩnh hằng. Vì vậy theo họ, những người nào không theo tôn giáo của họ thì không có cơ may hưởng được sự vui sướng trên thiên đường hay thoát khỏi địa ngục. Trên cơ sở này, dường như rằng họ nắm giữ một sự độc quyền duy nhất về thiên đường. Nhưng quan niệm của Phật giáo đối với vấn đề này là hoàn toàn khác. “Dù chúng ta có nhãn hiệu tôn giáo hay không, không có sự khó khăn nào đối với chúng ta để trải nghiệm niềm vui thiên đường nếu chúng ta sống một cuộc sống cao quý và hợp lý”. Theo Đức Phật, thiên đường không dành riêng cho những thành viên của một tôn giáo cụ thể nào; nó mở rộng ra cho bất kỳ ai có thể sống một đời sống cao quý.
Một số người đến làm chúng ta sợ hãi khi nói rằng chúng ta sẽ mất cơ may sinh về thiên đường nếu chúng ta không theo tôn giáo của họ. Cách khác, họ cố đe dọa chúng ta bằng việc nói rằng chúng ta sẽ bị đọa vào địa ngục nếu chúng ta không chấp nhận tôn giáo của họ. Đây là họ cố truyền bá tôn giáo của họ bằng việc tạo ra nỗi sợ hãi trong vô minh. Những Phật tử của hơn 2.500 năm qua không hề chọn thủ đoạn này để truyền bá Phật giáo. Đức Phật cũng không giới thiệu thiên đường để tạo nên sự cám dỗ; Ngài cũng không tạo nên sự sợ hãi về địa ngục để phổ biến Phật giáo. Ngài cũng không khước từ rằng mục đích của các Phật tử là sanh lên thiên giới hưởng phúc lạc. Nhiều nhà tôn giáo hứa hẹn với người khác rằng họ sẽ đạt được mọi thứ sau khi chết nhưng những nhà tôn giáo này không có nhiều điều để cung cấp cho đời sống hiện tại. Họ nói chung khuyến khích tín đồ của mình cam chịu nỗi khổ ở đây, bởi vì không điều gì có thể thực hiện được, nhưng họ đưa ra nhiều lời hứa về hạnh phúc vĩnh hằng ở thiên đường. Họ sẵn sàng đưa ra những lời hứa như vậy bởi vì họ biết rất rõ rằng không có người nào sẽ trở lại từ thế giới bên kia để tường thuật với họ rằng không thể có được những điều mà những nhà tôn giáo đã hứa hẹn.
Trong suốt thời Đức Phật, một số người muốn hưởng được những phúc lạc thiên giới sau khi chết, đã đến gặp Phật và nói với Ngài rằng là người tại gia họ thấy khó để sống một đời sống tôn giáo thuần túy. Là những người thế tục, họ muốn những thú vui trần tục và khẩn cầu Ngài giảng giải cách để có được hạnh phúc mà không xoay lưng lại với thế giới vật chất. Thế rồi Đức Phật đã hỏi: “Tại sao bạn phải chờ đợi để trải nghiệm phúc lạc thiên giới sau khi chết? Bạn có thể trải nghiệm phúc lạc thiên giới trong khi đang sống ở thế giới này”. Nếu bạn biết cách điều khiển đời sống theo một cách thức đúng đắn, bạn có thể trải nghiệm phúc lạc thiên giới ở đây cũng như sau khi chết.
Có những bản kinh tương tự khác ở đó Đức Phật đã thuyết giảng về đời sống thiên giới này. Về khái niệm địa ngục, Ngài cũng đề cập trong một bản kinh rằng chúng ta không nên nghĩ rằng địa ngục là ở một nơi nào đó dưới quả đất này, ở dưới đáy đại dương hay dưới đáy của Maha Meru (một núi đá huyền bí được cho là lớn nhất ở cõi đời này). Trong ngữ cảnh Phật giáo, thiên đường và địa ngục không phải nằm ở một khu vực cụ thể cũng không phải một nơi chốn do một ai đó tạo ra sẵn. Khi người ta nói về thiên đường và địa ngục, họ nói rằng thiên đường là ở trên và địa ngục là bên dưới. Nhưng nếu chúng ta đào quả đất này xuyên thủng sang bên kia, tôi nghĩ sẽ không thể tìm thấy địa ngục.
Theo Đức Phật, mọi người có thể trải nghiệm phúc lạc thiên giới nếu tâm của vị ấy luôn an trú vào bốn nơi thiêng liêng ở trong chính đời sống này, đó là Bốn Phạm trú (Brahma Viharas) từ, bi, hỷ và xả. Để có hạnh phúc người ta phải phát triển chánh kiến để có thể thấy rằng chúng ta chỉ tồn tại ở trong mối liên hệ với tất cả những loài sống khác. Điều này có nghĩa rằng để hạnh phúc người ta phải đảm bảo hạnh phúc và lợi ích của kẻ khác.
Khi chúng ta thực hành tâm từ (metta), chúng ta làm tràn khắp toàn thể vũ trụ, bắt đầu với chính chúng ta, với tình thương vô ngã thuần tịnh không phân biệt. Chúng ta cũng phát khởi tâm bi (karuna) đối với những người kém may mắn sau đó chúng ta làm việc một cách tích cực và không ngưng nghỉ để làm giảm đi nỗi đau khổ của họ. Sau đó chúng ta hoan hỷ (mudita) với hạnh phúc mà người khác có được bởi việc làm như vậy sẽ giúp chúng ta xóa bỏ những cảm thọ ganh tỵ và ác tâm độc hại. Nhưng điều cao nhất trong số những trạng thái lợi ích tích cực này là tâm xả (upekkha), nơi tâm không còn bị ảnh hưởng bởi bất kỳ những cảm thọ tích cực hay tiêu cực mà vô cùng tĩnh lặng, sáng suốt và bặt dứt phiền não. Những ai sống được ở trong bốn trạng thái này có thể được nói là đang sống trong cõi thiên giới ở trên mặt đất. Tất nhiên những người sống trong những trạng thái ngược lại là tham, sân, si v.v… thì đang sống trong địa ngục ở trên trái đất này.
Thường người ta sáng tạo ra những cõi thiên đường tưởng tượng tùy theo những nhu cầu thế gian của họ. Xa xưa, những người sống ở những sa mạc cũng có niềm tin của họ vào thiên đường và địa ngục. Họ mô tả thiên đường như là một nơi ở đó họ có thể thưởng ngoạn những thác nước đẹp. Đối với họ, thiên đường cung cấp cho họ những thứ (nước, sự mát mẻ, cây xanh) mà họ thiếu ở trong đời sống này. Đối với những người Anh-điêng da đỏ, thiên đường là một bãi săn bắn thích thú mà ở đó họ có thể săn bắt bất kỳ con thú nào theo nhu cầu của họ. Điều này là lẽ thường bởi vì họ có sự khó khăn trong việc săn đủ số thú cho nhu cầu tồn sinh hàng ngày của họ. Khi những người Tây Tạng trải qua mùa đông ở Hy Mã Lạp sơn, khổ sở mà họ đối diện được mô tả như là địa ngục. Đối với họ, sự ấm áp hay lửa là thiên giới. Bây giờ tôi nghĩ bạn có thể hiểu cách người ta đã sáng tạo nên những hình ảnh thiên đường và địa ngục theo những nhu cầu trần tục của họ như thế nào. Bản năng của chúng ta là mong muốn điều tốt lành và thoát khỏi điều xấu ác. Trong ý nghĩa này, chúng ta có thể nói rằng Đức Phật không phủ nhận sự hiện hữu của một thiên giới và địa ngục. Nhưng không giống như một số người tin rằng thiên giới và địa ngục là những vị trí cụ thể, Phật giáo cho rằng thiên giới và địa ngục không ở nơi một khu vực cụ thể, mà ở nơi “những mức độ hiện hữu” khác nhau. Phật giáo phân loại tất cả mọi sự hiện hữu ở trong thế giới này và thế giới khác vào trong 31 trạng thái, mà chúng được gộp vào những nhóm khác nhau.
Đầu tiên trong những nhóm này là: địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh, là những chúng sanh ở trong một trạng thái khổ đau theo những cách thức khác nhau. Sau đó có đời sống loài người, sáu loại thiên giới mà ở đó chúng sinh hưởng được những lạc thú giác quan hơn những chúng sanh khác. Nhưng chư thiên (hay những chúng sanh của ánh sáng) ở trong các cõi trời tập trung nhiều vào lạc thú hơn là vào phát triển tâm linh. Trong số các cảnh giới này, sanh vào cõi người là đáng mong muốn nhất. Bởi vì may mắn có được một tâm thức phát triển cao và cơ hội quán sát cả khổ đau và lạc thú cũng như cái chết, sự thối rữa và bệnh tật, con người có thể hiểu sâu hơn về sự thật của lời dạy Đức Phật.
Tất cả những tôn giáo khác đều nói về thiên đường và họ nói rằng thiên đường là vĩnh hằng hay bất diệt. Nhưng Phật giáo không đồng ý với niềm tin rằng có một cõi thiên đường vĩnh hằng dành cho con người để trải nghiệm lạc thú của họ mãi mãi bởi vì mọi thứ là vô thường. Trái lại theo Phật giáo, có sáu loại thiên giới (Devaloka). Lối sống của họ và lạc thú mà họ hưởng là cao hơn nhiều so với cảnh giới con người. Tuy nhiên, mặc dù họ hưởng được những lạc thú giác quan cho đến mức tối đa, họ không thoát khỏi tham, sân, ganh tỵ và lo âu bản thân.
Phật giáo nói rằng người sanh vào một trong các cõi trời là nhờ vào thiện nghiệp của họ được tích lũy trong những kiếp làm người trước đây của họ. Tái sanh xảy ra trong những hình thức hiện hữu khác nhau là tùy vào nghiệp lực của chính họ mà không do sự ảnh hưởng của bất kỳ đấng siêu nhiên nào. Nhưng không ai có thể ở mãi trong những cảnh giới này bởi vì năng lực thiện nghiệp của họ thì có hạn và khi nó cạn kiệt họ phải xoay chuyển theo nghiệp tích lũy trước đó. Do đó Phật giáo nói rằng thiên giới và địa ngục không phải là những nơi chốn vĩnh hằng mà chúng sanh có thể thọ hưởng hay gánh chịu mãi mãi.
Nhiều học giả, triết gia, khoa học gia, những người duy lý và những nhà đại tư tưởng cũng không đồng ý với niềm tin về một sự hiện hữu vĩnh hằng. Triết gia Tây phương nỗi tiếng – Julian Huxley, đã giễu cợt niềm tin này bằng việc nói rằng: “Làm cách nào chúng ta có thể tin rằng có một cõi địa ngục vĩnh hằng do một Thiên Chúa tạo ra để trừng phạt sinh linh mãi mãi vì một lỗi lầm mà người ta phạm phải? Họ có thể biện minh điều này bằng cách nào? Hãy trao cơ hội khác cho con người khốn khổ này để cố gắng lại. Làm sao một vị Chúa có thể kết tội một người mãi mãi theo cách thức này?”.
Có nhiều cách thức mà ở đó những người ngây thơ bị biến thành nô lệ đối với niềm tin tôn giáo của họ bằng sự đe dọa trừng phạt ở trong địa ngục. Chúng ta hãy xem xét một số những cách thức này.
Có một số người tin rằng vào những nơi thờ phụng của tôn giáo khác hay tỏ lòng tôn kính đối với người sáng lập nên tôn giáo đó là một tội lỗi và do bởi điều đó họ sẽ bị đọa vào địa ngục. Sao những người đó có thể tạo nên tội lỗi khi họ không hề làm bất cứ điều gì để làm hại kẻ khác và không bao giờ làm ô nhiễm tâm thức với sự ganh tỵ, sân hận hay bất kỳ những suy nghĩ xấu ác khác. Như vậy bằng cách nào những người lãnh đạo của họ có thể biện minh luận cứ rằng họ đã phạm phải tội lỗi nên đọa vào địa ngục? Nếu họ nói rằng Thiên Chúa của họ giận dữ nếu tín đồ của ngài đến và kính trọng vị Chúa khác hay một nhà sáng lập tôn giáo khác, làm sao họ có thể khẳng định rằng vị Thiên Chúa này là nhân từ và khoan dung? Không lẽ nói rằng vị Thiên Chúa này có lòng ganh tỵ giống như một người phàm phu?
Họ cũng dạy rằng những người sống một đời sống đáng kính bằng việc gìn giữ tất cả những phẩm hạnh và những phẩm chất đạo đức và phục vụ người khác bằng mọi cách thức có thể sẽ không có cơ may sanh về thiên đường nếu họ không tin vào Thiên Chúa của họ. Có hợp lý không khi nói rằng bất luận người ta hành xử thế nào chăng nữa, họ chắc chắn được lên thiên đường nếu họ chỉ tin vào Thiên Chúa và cầu nguyện ngài. Những người bị chinh phục bởi những lời dạy phi lý như vậy, theo đó tình cảm tôn giáo của họ sẽ bị lung lay. Họ thay đổi tôn giáo của mình mà họ đã đang thực hành nhiều thế hệ và chuyển sang tôn giáo khác với niềm tin rằng họ có thể được “cứu rỗi” một cách kỳ diệu. Họ không chịu động não xem những lời xác quyết này có thực tiễn và hợp lý hay không. Đây là lý do tại sao người bệnh và người già thường bị cải đạo vào lúc sắp chết. Không biết về bản chất thật của hiện hữu, họ sợ hãi cái chết, nên dễ dàng thuyết phục rằng họ có thể lên thiên đường nếu họ chấp nhận một tôn giáo cụ thể, rằng tội lỗi của họ vì một lý do nào đó sẽ “mất” đi.
Họ có lẽ nghĩ rằng đời sống của họ nằm ở nơi lòng nhân từ của một vị Thiên Chúa và họ không có cách gì để quyết định nên đời sống tương lai bằng nỗ lực và hiểu biết của chính họ. Phật giáo dạy chúng ta cách quyết định đời sống tương lai của chúng ta theo cách sống, những tư tưởng, lời nói và hành động tốt và xấu của chúng ta, mà không tùy thuộc vào bất kỳ những tác nhân nào bên ngoài, và cũng chịu trách nhiệm về đời sống của chúng ta với sự tin chắc. Một người theo chủ nghĩa duy lý gốc Mỹ, đã sống cách đây khá lâu, từng nói rằng theo sự quán sát của ông, ông thích địa ngục hơn là thiên đường, bởi vì quan niệm được duy trì bởi một số nhà tôn giáo rằng tất cả những người trí thức, học giả, khoa học gia, những nhà tâm lý học, những nhà tư tưởng tự do, bao gồm cả Đức Phật, đều ở trong địa ngục vì họ không tin vào Thiên Chúa. Ông nói rằng trong trường hợp đó, nếu ông tình cờ lên thiên đường, ông sẽ cảm thấy lạc lõng ở một nơi chốn mà ở đó không có những người trí thức, và cõi thiên đường sẽ là một nơi chốn rất tăm tối. Đến mức ông lo lắng cõi thiên đường là một nơi chỉ dành cho những người muốn hưởng những dục lạc trần tục mà không sử dụng đến trí não. Phật giáo chắc chắn không xem một đời sống kiếp sau ở thiên giới như là mục đích quan trọng nhất của đời người hay như một nơi chốn mà ở đó con người có thể có sự nghỉ ngơi vĩnh cữu.
Vượt qua khỏi đời sống trần gian này, có một sự phân loại các chúng sanh được gọi là chư thiên (deva), những chúng sanh trải nhiệm sự bình an, thảnh thơi và trải qua một chu kỳ sống hết sức lâu dài ở trong những cõi trời. Họ được biết như là các Phạm thiên (Brahma) ở trong cõi thứ 16 của các Phạm thiên giới. Họ đã giảm bớt tham ái đối với những lạc thú giác quan đến một mức độ đáng kể và trải nghiệm nhiều hơn sự bình yên mà họ đã phát triển trong suốt những kiếp trước của họ đặc biệt thông qua thiền định. Mặc dù sự hiện hữu này không vĩnh cữu, họ được xem là vĩnh cữu do vì thọ mạng lâu dài. Đây là tại sao một số nhà tôn giáo vẫn tin rằng đạt được trạng thái Phạm thiên là vĩnh cữu. Đức Phật chỉ ra rằng nó không phải như vậy.
Thêm bốn cảnh giới khác của đời sống Phạm thiên được đề cập trong Phật giáo. Những chúng sanh này tồn tại bằng ý thức mà không có thân thể vật lý có thể nhìn thấy. Trạng thái sống khác ở trong cõi Phạm thiên là sự hiện hữu của thân thể vật lý nhưng không có bất kỳ sự nhận thức nào ở trong tâm của họ. Họ không trải nghiệm những gánh nặng vật lý và tâm thức trong một thời kỳ dài, hơn hẳn sự an bình mà các Phạm thiên khác trải nghiệm, và chu kỳ đời sống của họ cũng dài hơn chu kỳ mà những chúng sanh khác đạt được hàng triệu năm. Cho dù như vậy, những trạng thái hiện hữu này là vô thường theo Đức Phật. Tất cả những trạng thái này là 31 cảnh giới hiện hữu được giải thích ở trong kinh sách Phật giáo. Quan niệm này là gần với vũ trụ luận Ấn Độ. Tuy nhiên, theo cái nhìn Phật giáo, chúng ta hiểu chúng như là những trạng thái của tâm thức con người. Chúng khác nhau tùy theo sự phát triển hay sa đọa của tâm thức con người. Chúng không biểu hiện ở nơi những hình thức thô hay vật chất. Thêm nữa, rõ ràng có sự hiện hữu của những loài chúng sanh khác nhau trong những hình thức khác nhau theo môi trường, những yếu tố và những nhân tố khác. Họ hiện hữu trong những chu kỳ thế giới khác nhau tùy thuộc vào sức mạnh tâm thức của họ và sự trải nghiệm lạc hay khổ theo những năng lực nghiệp tốt hay xấu của họ đạt được trong những kiếp trước.
Câu chuyện sau có thể giải thích cách thức các Phật tử hiểu về thiên đường và địa ngục. Một vị Tăng một lần nọ giảng về thiên đường và địa ngục. Một vài thính giả không tin vào thiên đường và địa ngục đã thách thức vị Tăng, nói rằng ông đang làm lạc lối những người ngây thơ bằng việc nói về những cõi không hiện hữu. Một người đàn ông rất hung dữ lớn giọng yêu cầu vị Tăng chứng minh hai cõi này hiện hữu.
Nhìn bộ dạng sân hận của người này, vị Tăng sĩ nói: “Bạn không biết rằng hiện bạn đang ở trong địa ngục sao?”. Người đàn ông ngay khi ấy hiểu ra được khái niệm địa ngục theo sự diễn đạt của vị Tăng.
Sau đó với gương mặt tươi cười, ông ta lại hỏi: “Được rồi. Bây giờ hãy cho tôi biết thiên đường ở đâu”. Vị Tăng điềm tĩnh trả lời: “Bây giờ ông đang ở trong thiên đường đấy”.
Ví dụ đơn giản nhưng có ý nghĩa này trao cho chúng ta một vài ý tưởng về cách sử dụng hiểu biết thông thường để hiểu rằng chúng ta tạo nên thiên đường và địa ngục theo thái độ tâm thức của chúng ta.
Trong một vài gia đình, vợ và chồng, cha mẹ và con cái có những tranh cãi mỗi ngày, khóc lóc, than vãn và chửi rủa lẫn nhau, cho dù họ sống trong cùng một ngôi nhà. Họ đôi khi không có đủ thực phẩm để ăn, áo quần thích hợp để mặc, hay thậm chí đủ nơi để ngủ. Những nơi như vậy có thể được xem như là địa ngục trên trái đất này. Trong một số trường hợp khác, mặc dù người ta có đầy đủ những điều này để sống một cách thoải mái, thái độ tâm thức nghèo nàn của họ hoàn toàn quấy nhiễu sự bình an và hạnh phúc. Do đó, những người như vậy đã làm cho đời sống của họ khổ đau hơn do sự sân hận, tâm thức hẹp hòi, tỵ hiềm và ích kỷ của họ. Đây cũng là một loại địa ngục khác mà những người đó tạo ra ở ngay trong đời sống này.
Ngược lại có một số gia đình ở đó người ta cảm nghiệm được sự an bình, hạnh phúc, hòa hợp và toại nguyện do vì có sự hiểu biết, nhẫn nhục và thương yêu mặc dù họ nghèo. Và một vài người khác có đầy đủ tài sản vật chất, có sức khỏe tốt, lại thêm có sự hiểu biết và thương yêu lẫn nhau. Những người như vậy đang tạo nên phúc lạc thiên giới ngay ở nơi chính thế gian này.