Nhận thức Phật giáo về thiên đường và địa ngục - Phần II Tâm và tín
Thiên đường và địa ngục được miêu tả trong kinh sách của nhiều tôn giáo phù hợp với bản chất tâm lý của con người. Họ biết rằng nếu không có phần thưởng và trừng phạt ở một đời sống khác con người không bao giờ sống một đời sống đúng đắn. Thường thường, sự miêu tả về thiên đường và địa ngục theo cách này là phương pháp hữu hiệu khiến con người bớt ích kỷ, làm việc phục vụ người khác và không làm hại người khác vì lợi ích của họ. Trong quá khứ thiên đường được miêu tả như là một nơi chốn ở đó có đầy những lạc thú giác quan, thứ mà những người giàu và người có quyền thế hưởng được ở trần gian, nay trở thành phần thưởng dành cho người sống tốt ở cõi đời này sau khi chết. Còn sự tra tấn như là hình phạt ở trong địa ngục thì không có gì khác hơn là sự trừng phạt mà những người cai trị đưa ra đối với những tội nhân đã xâm phạm sự bình yên và trật tự.
Theo Phật giáo, khổ đau ở địa ngục và vui sướng ở thiên giới không phải là vĩnh hằng. Đồng thời, thiên giới và địa ngục không được xác định là một nơi chốn cụ thể mà hiện hữu nơi chúng sanh trải nghiệm những trạng thái lạc và bất lạc của sự hiện hữu ở mọi nơi trong vũ trụ, trong bất kỳ hình thức vật lý nào và tùy theo trạng thái tâm thức an vui hay khổ đau.
Ở mức độ khác, niềm tin mà một vài người nắm giữ rằng tất cả những cảm thọ vui thích hay khó chịu của chúng ta thì chỉ được trải nghiệm bên trong đời sống này là không thể chấp nhận được đối với Phật giáo. Chúng ta trải nghiệm đau khổ và vui sướng như là những ảnh hưởng của ác nghiệp và thiện nghiệp của chính chúng ta, chừng nào sự hiện hữu hay tái sanh còn xảy ra. Chỉ bằng sự cầu nguyện hay thờ phụng một ai đó, chúng ta không thể thoát khỏi sự ảnh hưởng của những việc làm xấu ác của chúng ta mà chúng ta đã tạo tác. Đây là quan điểm của Phật giáo. Nếu có ai đó có thể tha thứ hết thảy lỗi lầm của chúng ta thì đó chắc phải là chính chúng ta chứ không phải một kẻ bên ngoài. Theo Đức Phật, hành nghiệp tốt và xấu do chúng ta tạo ra và chúng ta chịu trách nhiệm cho sự thanh tịnh hay bất tịnh của tâm thức chúng ta. Do đó không thể rằng người khác làm thanh tịnh hay làm ô nhiễm tâm thức của chúng ta.
Có cơ may nào cho chúng ta để vượt qua hay thoát khỏi những ảnh hưởng xấu hay không? Có, điều đó có thể nhưng không thật dễ dàng. Phật giáo không chấp nhận niềm tin mà nhiều người khác đã nắm giữ đối với việc tha thứ lỗi lầm, về việc thờ phụng và cầu nguyện Thiên Chúa để cầu xin tha thứ, về việc thực hiện những loại nghi lễ tôn giáo khác nhau, về việc tế lễ muông thú để làm hài lòng thần linh và hành hạ thân xác để thoát khỏi sự trừng phạt. Những thực hành như vậy là không hợp lý từ quan điểm Phật giáo. Có phương pháp thực tiễn và hợp lý nào được thực hành ở trong ngữ cảnh Phật giáo không khi chúng ta nhận thấy rằng những hành vi của chúng ta là sai trái và có hại? Mỗi khi chúng ta nhận thấy chúng ta đã làm điều sai trái thì điều đầu tiên chúng ta phải làm là thực hiện một quyết định mạnh mẽ để không phạm phải những hành vi xấu ác như vậy nữa. Nhưng chỉ như vậy thôi thì không đủ.
Sau đó chúng ta nên nỗ lực làm càng nhiều việc thiện càng tốt bằng việc phát triển sự tử tế, lương thiện, bố thí và hiểu biết đúng đắn. Việc trau dồi những phẩm chất tốt và những việc làm thiện như vậy là tích lũy nghiệp thiện. Sự thanh tịnh tâm thức tăng lên và nghiệp thiện tạo nên năng lực mạnh mẽ hơn để làm vững mạnh tâm thức và đem lại sự tự tin vào đời sống tương lai của chúng ta. Khi nghiệp thiện vững mạnh và tích cực ở trong tâm thì những nghiệp xấu mà chúng ta đã phạm phải trước đó sẽ giảm dần, trở nên yếu đi và không hoạt động. Nếu cái chết xảy ra với trạng thái tâm thức này chiếm ưu trội thì việc tái sanh xảy ra trong một điều kiện thuận lợi. Sự giải thích này giúp chúng ta hiểu cách chúng ta có thể xóa bỏ những ảnh hưởng của tội lỗi của bản thân. Tuy nhiên, điều này không phải là sự chấm dứt nghiệp ác của chúng ta, bởi vì không thể trừ diệt chúng hoàn toàn dễ dàng như vậy.
Trong tiến trình tiếp tục tích lũy thêm những nghiệp thiện, bằng việc phục vụ người khác và giảm bớt những bất tịnh tâm thức, chúng ta có thể vượt qua những ảnh hưởng của nghiệp xấu bởi vì nghiệp tốt có thể ngăn chặn những ảnh hưởng của nghiệp xấu. Bằng cách này, chúng ta có thể tiếp tục cải tiến tiến trình đời sống và gia cố sự phát triển tâm linh của chúng ta cho đến khi chúng ta đạt được thánh quả và mục đích cuối cùng. Khi tham ái, điều quyết định sự tái sanh, bị dập tắt, những năng lực nghiệp xấu cũng tự động bị loại trừ. Chỉ khi đó chúng ta mới thoát khỏi những ảnh hưởng của nghiệp xấu. Nhiều người tin rằng thiên đường và địa ngục là do Thiên Chúa tạo ra và rằng nơi chốn đó được tạo sẵn. Khi một người thuyết giảng nói về việc sáng tạo nên thiên đường và quả đất, một người trong thính chúng hỏi: “Tôi có thể biết những gì mà ngài [Thiên Chúa] thực sự đang làm trước khi ngài tạo nên thiên đường và trái đất không?” Thế rồi người diễn thuyết trả lời: “Bạn có biết trong suốt thời kỳ đó ngài [Thiên Chúa] đang tạo ra địa ngục cho những người hỏi những loại câu hỏi như vậy không”.
Thiên đường và địa ngục rất quan trọng đối với nhiều người. Nhưng đây là một khái niệm được những tôn giáo cổ xưa đưa ra. Khi người ta không thể hiểu cách để thực hiện những bổn phận của họ như là những con người, trau dồi một số đức hạnh, bảo vệ nhân phẩm con người và hiểu cách để hành xử như những người có văn hóa, những người lãnh đạo của họ đưa ra niềm tin này để khiến họ hành xử theo một con đường tốt. Họ nói rằng nếu người ta theo những nguyên tắc tôn giáo như vậy, thực hiện những bổn phận của họ đối với cha mẹ, vợ, chồng, hàng xóm… thì sau khi qua đời họ có thể có một đời sống vui sướng vĩnh hằng ở Thiên đường. Đó là cách duy nhất để thuyết phục người ta làm điều tốt – thật sự giống như việc huấn luyện con trẻ làm điều tốt bởi vì chúng không thể hiểu hay nhận chân đúng sự cần thiết để làm điều tốt. Với những đứa trẻ, hứa cho chúng một thứ gì đó mà chúng mong muốn là cần thiết, chẳng hạn như cho sô-cô-la, kẹo hay đồ chơi. Chỉ khi ấy mới khiến chúng để tâm đến. Đức Phật không chọn quan điểm đó để giới thiệu con đường sống theo tôn giáo của Ngài. Ngài xem chúng ta là những người trưởng thành. Ngài không sử dụng ngôn ngữ ngon ngọt để cám dỗ chúng ta. Ngài biết rằng chúng ta có khả năng để hiểu sự việc mặc dù nhiều người trong chúng ta không bận tâm để làm như vậy. Phương pháp của Ngài là không hứa bất cứ điều gì mà dạy con người hiểu những gì là đúng và những gì là sai và bản chất của nhân quả. Theo Ngài, nếu chúng ta làm điều tốt chỉ nhằm mục đích sanh về thiên giới, là chúng ta ích kỷ, bởi vì với động cơ đó chúng ta sẽ không phát triển được những phẩm hạnh như lòng từ bi, sự chân thành và hiểu biết, và sẽ không bao giờ giảm đi sự ích kỷ và hành xử vị tha. Hạnh phúc chân thật chỉ có thể xảy ra khi một người hoàn toàn loại trừ đi khái niệm về cái ngã hay cái “Tôi” của mình.
Trong một bản kinh Đức Phật nói rằng những người có được hạnh phúc trần tục là may mắn trong đời sống gia đình nhưng họ phải khôn ngoan sử dụng tài sản của mình để không phát triển tâm ích kỷ. Họ phải đủ lòng tốt để chia sẻ hạnh phúc với người khác. Đức Phật không kết tội lợi ích và hạnh phúc thế tục. Nhưng nếu chúng ta biết cách để sử dụng chúng, trải nghiệm niềm vui theo một cách đúng đắn, chúng ta có thể đạt được phước đức thiên giới trong khi chúng ta ở đây mà không chỉ sau khi chết. Nhưng những gánh nặng vật lý ở trong cõi thiên giới là ít hơn ở cõi người. Cách khác, khả năng trí tuệ của con người là khả dụng cho việc phát triển tâm linh. Chư thiên không nghĩ đến việc thực hành phước thiện. Con người may mắn hơn ở khía cạnh đó. Chúng ta có cơ may làm giàu hiểu biết của chúng ta.
Theo những câu chuyện Phật giáo, khi chư thiên gặp một vài vấn đề khó xử, họ cũng đi đến Đức Phật để tìm giải pháp. Là con người, chúng ta “tiêu dùng” năng lực thiện nghiệp mà chúng ta đã tích lũy ở trong kiếp sống trước. Trong khi sử dụng chúng ta cũng có thể tích lũy thêm phước đức càng nhiều càng tốt cho đời sống tương lai bởi vì chúng ta biết rằng đời sống này không phải là kiếp sống sau cùng của chúng ta. Sự tiếp tục tiến trình tái sanh xảy ra theo phước đức của chúng ta, cho dù chúng ta có tin nó hay không, cho dù chúng ta có thể hiểu nó hay không. Chư thiên không thể tạo nên nghiệp mới như con người.
Chúng ta nói rằng muông thú là kém may mắn mặc dù chúng có thức ăn và nhiều thứ khác. Chúng không may mắn bởi vì chúng không biết bất cứ điều gì về số phận đời sống của chúng. Với chúng, không thể tích lũy phước đức hay có được sự phát triển tinh thần. Đó là tại sao con người có thể làm bất cứ điều gì đối với chúng qua việc sử dụng trí thông minh con người của mình. Con người bắt chúng, hành hạ và giết chúng theo ý muốn của họ. Những con thú không biết rằng sẽ có sự tiếp tục trong đời sống. Chúng không hiểu rằng đời sống thú vật chắc chắn không chấm dứt ở nơi sự kết thúc đời sống đó. Sự tồn tại lặp lại bởi vì trong tâm con thú đó, còn sót lại dư nghiệp của sân hận, ganh tỵ, tham ái và vô minh đã được phát triển trong những kiếp quá khứ mà chúng chưa dứt sạch.
Đây là những lực xấu chính yếu tiềm tàng trong mỗi và mọi chúng sanh. Bởi vì họ không thoát khỏi những tư tưởng như vậy nên tái sanh xảy ra trở lại. Trong trường hợp của chúng ta, chúng ta đã kiểm soát một số suy nghĩ xấu ác nhưng chúng vẫn tồn tại. Chúng ta có thể thuần phục thú vật bằng đánh đập, huấn luyện và dọa nạt chúng. Bởi vì sợ hãi, chúng hành xử giống như những con thú thuần hóa. Khi chúng ở gần chúng ta một thời gian, chúng tự động trở nên thuần hóa. Trong cùng cách, mèo, chó, bò, dê và voi… trở nên dễ bảo bởi vì chúng ở với chúng ta qua nhiều thế hệ. Nhưng chúng vẫn có bản chất thú vật của chúng. Mặc dù chúng ta là những con người, vẫn có nhiều người trong chúng ta không biết cách sử dụng đời sống con người có giá trị của chúng ta. Chúng ta xem thường những cơ hội hay phương tiện mà chúng ta có để trau dồi lối sống của mình. Chúng ta xem thường đời sống con người có giá trị của chúng ta do vì sự ích kỷ và xảo trá của chúng ta. Vì lý do này, giáo pháp của Đức Phật là quan trọng để lát con đường cho những người vô minh như vậy suy nghĩ đúng đắn và phát triển những giá trị con người.
Theo Đức Phật, đời sống con người là quan trọng hơn những đời sống trong 31 cõi hiện hữu khác. Chư thiên không cao hơn con người về phẩm hạnh và việc phát triển đời sống tâm linh. Theo Phật giáo, sanh về thiên giới không phải là điều đáng mong mỏi, mặc dù những tôn giáo khác đã miêu tả nó bằng một cách thức như vậy để cám dỗ chúng ta. Ở thiên giới, chúng ta trải qua hàng triệu năm thọ hưởng những ích lợi của thiện nghiệp quá khứ, mà không có cơ hội để phát triển tâm thức chúng ta để đoạn trừ ba độc tham, sân và si.
Bây giờ chúng ta hãy thảo luận về địa ngục, bởi vì nhiều tôn giáo tận dụng khái niệm địa ngục để phổ biến tôn giáo của họ. Đây là một vũ khí mạnh mẽ cho họ để đe dọa con người. Đã có thời những nhà chức trách y tế ở Anh đã khẩn khoản yêu cầu những phái đoàn truyền giáo đừng tạo nên sự sợ hãi trong tâm dân chúng bằng việc đe dọa về lửa địa ngục để giới thiệu tôn giáo của họ, bởi vì những nhà chức trách y tế nhận thấy rằng nhiều người chịu khổ đau từ sự rối loạn tâm thần do nỗi sợ về lửa địa ngục. Tạo ra nỗi sợ hãi trong tâm con người trở thành một phương pháp hữu hiệu để giới thiệu tôn giáo tốt nhất ở những quốc gia Á châu ngày nay. Họ nói rằng Đức Phật không thể cứu rỗi bạn bởi vì Ngài chỉ là một con người đã qua đời và ra đi từ lâu. Họ nói: “Tại sao bạn cầu nguyện và thờ phụng một con người không còn ở đây? Thiên Chúa của chúng tôi là người cứu rỗi duy nhất có thể cứu rỗi bạn bởi vì ngài đang sống trên thiên đường”. Những phái đoàn truyền đạo của Phật giáo hơn 2.500 năm qua không bao giờ sử dụng loại kỹ thuật này để truyền bá Phật giáo. Những người Phật tử không bao giờ nói rằng những người nào không chấp nhận tôn giáo của họ sẽ phải đọa vào địa ngục. Quan điểm của Đức Phật đối với những tôn giáo khác là rất từ bi và hợp lý.
Đời sống dễ biến đổi. Khi chúng ta bỏ mặc đời sống của chúng ta, sự suy sụp rất dễ xảy ra. Sau đó nâng nó lên lại trở thành một vấn đề lớn. Niềm tin vào tái sanh là một chủ đề khác mà một số giáo đoàn truyền giáo sử dụng để nhạo báng Phật giáo. Họ nói rằng những người theo Phật giáo, sẽ không chịu khổ đau nữa, bởi vì sự tái sanh của họ chỉ là việc nối dài sự giải thoát sau cùng qua việc trở thành muông thú, ma quỷ và v.v… Còn những người theo tôn giáo của họ, không trở thành thú vật hay ma quỷ mà ngay lập tức có thể lên thiên đường và không ở đây để chịu khổ sau khi chết. Nhiều người tin những gì họ thuyết giảng mà không sử dụng tri thức phổ thông.
Tái sanh xảy ra không tùy thuộc vào những nhãn hiệu tôn giáo khác nhau mà bởi cách suy nghĩ, cách nói năng và hành động với suy nghĩ tốt và xấu ác của con người. Vì vậy suy nghĩ và hành động của chúng ta chịu trách nhiệm cho việc hình thành nên đời sống kiếp sau. Cho dù người ta có tôn giáo hay không, điều đó không phải là yếu tố quan trọng để quyết định nên sự tái sanh.
Mặc dù Đức Phật khuyên con người hãy giữ gìn nhân phẩm, Ngài không bác bỏ những nguyên tắc tôn giáo như là những điều răn hay luật lệ. Bằng ngôn ngữ đơn giản, Ngài nói rằng nếu bạn thực hiện những hành vi xấu ác, bạn phải đối mặt với những kết quả mang lại khổ đau hoặc thuộc về vật lý hoặc thuộc về tâm lý, ở kiếp sống này hay kiếp sống sau. Bạn cũng nên xem bản chất của niềm vui hay nỗi khổ đau trong những cảnh giới hiện hữu khác nhau, và đây là những cảnh giới được giới thiệu bằng việc đưa ra những danh xưng khác nhau chẳng hạn như thiên giới, địa ngục, thế giới ma quỷ và thế giới súc sanh.
Ngày nay khoa học và công nghệ hiện đại đã mở rộng tri thức của chúng ta để hiểu nhiều điều trong thế giới và vũ trụ này mà những người nguyên thủy không thể hiểu được. Do sự thiếu hiểu biết, họ đã giải thích đời sống và cái chết bằng những thuật ngữ rất đơn giản, điều họ sau đó đã chấp nhận như là những chân lý hay giáo điều tôn giáo.
Chúng ta không biết rằng mỗi ngày chúng ta đang định hình nên thiên đường và địa ngục theo lối sống của mình, cũng như những ảnh hưởng tốt và xấu mà chúng ta trải nghiệm ở đây và kiếp sau. Điều này không có nghĩa rằng Phật giáo phủ nhận hoàn toàn niềm tin về một đời sống “thiên đường” hay một sự khổ đau địa ngục sau khi chết. Nhưng khái niệm Phật giáo về niềm tin này là khác với những tôn giáo khác. Điều này muốn nói rằng khi chúng ta sống bằng việc trau dồi những phẩm chất và đức tính tốt qua việc thực hành theo một số nguyên tắc tôn giáo mà không vi phạm sự an bình và hạnh phúc của kẻ khác, chúng ta cũng có thể trải nghiệm một đời sống dễ chịu, hạnh phúc, thịnh vượng và yên bình hơn ở bất cứ nơi nào trong vũ trụ sau khi chết mà ở đó đời sống hiện hữu. Đối với chúng ta, đó là thiên đường.
Ngược lại, nếu chúng ta sống đời của mình bằng việc chứa chấp sự sân hận, ganh tỵ, oán giận, ác ý và những loại tư tưởng xấu ác khác ở trong tâm, chúng ta phải đối diện với những kết quả trong hình thức của khổ đau hoặc trong kiếp này hoặc kiếp sau. Cũng sẽ khó khăn cho chúng ta để có một sự tái sinh tốt ở trong một môi trường tốt để tu bồi những phẩm hạnh đạo đức. Khi đời sống trở nên nhiều đau khổ hơn, chúng ta xem trạng thái hiện hữu này như là địa ngục.
Bằng việc biết rõ tình trạng thật ở trong đời sống trần tục, người hiểu biết cố gắng quyết định cách sống của họ và sống hòa bình không làm hại kẻ khác và cũng làm việc để giúp đỡ chúng sanh. Chúng ta thích có một sự hiện hữu thuận lợi, tốt đẹp và vui sướng. Nhưng ước vọng của chúng ta là rất khó thực hiện. Thế giới không được sắp xếp theo ý của chúng ta. Sự hình thành cuộc đời này không xảy ra chỉ để thích ứng với chúng ta. Thế giới vận hành theo luật và bản chất vũ trụ của chính nó. Những điều này là công bằng – cho dù chúng ta giàu hay nghèo, có học hay thất học. Là những người có tôn giáo, chúng ta có thể duy trì hạnh phúc và sự mãn nguyện thông qua sự hiểu biết này. Khi những khó khăn, bệnh tật, lo lắng, xáo trộn và tai họa đến với chúng ta, chúng ta không nên than vãn cũng không nên nguyền rủa hay đổ lỗi cho kẻ khác. Chúng ta nên xem tình huống này một cách cẩn thận để hiểu ai hay điều gì chịu trách nhiệm cho tất cả những vấn đề hay có điều gì bên ngoài chúng ta có thể bị khiển trách hay không. Đôi khi chúng ta đã làm một số điều sai trái. Đừng nghĩ rằng chúng ta luôn luôn đúng và người khác là sai. Mọi người trên cõi đời này đều phạm phải sai lầm.
Chúng ta đang sống trong một thế giới mà ở đó chúng ta luôn gặp phải sự va chạm, bất đồng, xung đột, tai họa, bất ổn và chiến tranh. Do đó, sự thách thức là tìm kiếm hòa bình ở trong một thế giới nơi đó bất đồng và va chạm là đang xảy ra hàng ngày.